– Làm gì có nam nhân nào ngủ với nàng rồi mà đành lòng giết nàng chứ?
Tiểu Man bặm môi, từ khi quyết định đi theo Xuân Ca Nhi, nàng tự thề không để bất kỳ nam nhân nào chạm vào cơ thể mình nữa, vì ba, không vì bốn đứa con, nàng không còn lựa chọn nào khác, tay trái bắt đầu kéo dây lưng quanh eo…
– Nhanh lên, trời sắp tối rồi.
Không nhìn thấy rõ Tiểu Man dùng động tác gì mà chiếc áo khéo léo dán sát tấm thân mỹ miều vô hạn đó trượt xuống. Bờ vai mịn màng, bầu ngực rung rinh dưới dưới yếm lụa mỏng, làn da trắng nõn, tất cả làm đều dễ dàng khiến nam nhân phát cuồng. – Trần Thụ, ta tặng lão bà ta cho ngươi, thân thể nàng vừa trắng vừa mềm, ngươi giết ta thôi được không, ta đảm bảo không oán hận, nếu ngươi thích, làm ngay trước mặt ta cũng được. Xuân Ca Nhi nắm vai Tiểu Man xoay người nàng về phía Trần Thụ thì phát hiện hắn đang chạy thục mạng về phía tây: – Í, đâu rồi, ngươi chạy cái gì chứ?
Giọng Trần Thụ từ xa truyền tới: – Đôi cẩu nam nữ ngươi nghe đây, lang yên đã nổi lên, gia gia phải tới quân ngũ đợi lệnh, không rảnh giết các ngươi. Nếu lần sau gặp lại, lão tử nhất định lấy đầu chó của các ngươi.
– Thế là đi mất rồi? Xuân Ca Nhi ngớ ra gãi đầu đầu gãi tai, từ địa ngục đột nhiên kéo lên chín tầng mấy, làm hắn không thích ứng được: – Lão bà, thấy nàng cởi y phục, người ta sợ chạy mất rồi kìa, không ngờ trên đời có nam nhân thấy nàng cởi y phục lại chạy mất.
Tiểu Man không trả lời, đứng ngây ra đó không biết nghĩ gì, từ từ kéo y phục lên ngang vai.
Xuân Cha Nhi chẳng chú ý phản ứng của Tiểu Man, hắn đang mừng rỡ vì thoát nạn, nhanh chóng lấy vỏ đao trên thi thể Hồng Ưng làm nạng, nếu đã không chết thì hắn sẽ tính phải sống thế nào, đó là bản năng của hắn.
Nơi này cách thành Lan Châu quá gần, khó tránh khỏi có người chạy ra, đám người Thổ Phồn hoặc lạc đà khách sẽ không chút do dự biến yêu cầu vừa rồi của mình thành sự thật.
Lấy hai đĩnh bạc trong rương, sau đó đổ hết số còn lại ra đất, đỡ Tiểu Man đã mặc lại y phục, hai phu thê tập tễnh đi vào rừng, lúc này gặp phải dã thú cũng đỡ hơn gặp phải người.
Xuân Ca Nhi tuyệt đối không để lại chút dấu vết nào cho người khác truy lùng, cẩn thận che lấp dấu chân, vết thương băng bó rất chặt, không còn tri giác nữa, tuy không có lợi, nhưng đảm bảo được không có máu chảy xuống đất.
Khi trăng non treo giữa trời thì bọn họ đi khỏi rừng, cách đó không xa là một nông xá, trong nhà có ánh đèn leo lét, tiếng khóc của trẻ con và thấp thoáng tiếng dỗ dành của Hao Đại Nương.
Mấy tiếng chó sủa, Xuân Ca Nhi hớn hở gọi lớn: – Nhi tử, ta về rồi!
Cửa mở, hai đứa bé vừa chạy vừa ngã lao ra, hò hét nào vào lòng cha mẹ.
Trăng sáng chiếu lên Lan Châu cũng chiếu lên Hà Khúc, trống cầm canh gõ ba lần, Lang Thản mặc chiến giáp dẫn thân về tuần tra trên tường thành.Cách thành mười dặm, một đội hỏa long từ chân trời kéo dài tới Độ khẩu, nhân trăng sáng vượt Hoàng Hà.
Thành Hà Khúc nằm bên Hoàng Hà, ngược dòng mà lên tới được phủ Hưng Khánh Tây Hạ, đi xuối dùng tới Hồ khẩu Hà Đông, nếu đi về phía đông thì gặp Tây Kinh nước Liêu, đi về phía tây chắc chắn gặp Hắc Thủy quân ti Tây Hạ.
Năm năm trước đại chiến Thiên quan, vì thành hủy, Lang Thản liền xây dựng Hà Khúc thành, chỉ xây mất một năm, khi Một Tàng Ngoa Bàng và Da Luật Hồng Cơ phân thắng bại thì thành Hà Khúc đã xây xong, không thể làm gì nổi. Lang Thản cũng truân binh một vạn cố thủ, thành như cái đinh đóng vào vùng tam giác ba nước, đây là lần đầu người Tống có tiếng nói nhất định với bờ bắc Hoàng Hà.
Thành Hà Khúc cùng Đồng gia trại, Hoành cốc trại tạo thành thế ỷ dốc, có Hùng Dũng quân, Bảo Đức quân làm hậu viện, trong năm năm qua đã ba lần đánh lui quân Liêu, thậm chí một lần đánh lui cả Liêu cùng Tây Hạ xâm phạm, tuy nơi này phát sinh sứ giả, nhưng ba nước đều không nhắc tới chiến sự ở thành Hà Khúc.
Năm năm chinh chiến không dứt, Lang Thản đã lập nên uy vọng tuyệt đối ở nơi này, hắn còn dâng tấu lên triều, xin cho sương quân tới trú ở một dải bình nguyên Huyền Xuyên hà, Chu Gia hà, những sương quân này không chịu trách nhiệm chiến đấu, mà dùng truân điền, bổ xung lương thực cho thành Hà Khúc.
Hoàng đế ngay lập tức đồng ý, điều năm vạn sương quân từ Hồ Nam tới, đến năm thứ hai truân điền hơn bảy vạn mẫu, đám ứng được lương thực cho sương quân và gia quyến, còn có lượng nhỏ cung ứng cho thành Hà Khúc.
Triều đình thấy hiệu quả rõ ràng, Bàng Tịch phái sáu mươi tám quan viên ti nông tự tới lưu vực Huyền Xuyên hà, Vương An Thạch khi đó là tam ti sứ cũng cấp cho bọn họ giống lương thực tốt nhất, còn điều ba mươi bảy giám sinh có công truân điền ở Lương Sơn tới làm quan địa phương.
Thế là mười chín vạn mẫu nông điền mới xuất hiện, chẳng những cung cấp hơn hai mươi vạn thạch lương cho biên quân, còn hóa giải gánh nặng cung ứng quân lương của bách tính Hà Đông.
Lúc này Hà Khúc đã vào cuối thu cỏ khô khắp nơi, sau khi sương xuống, tới canh bốn mù trắng mịt mùng, hỏa long đằng xa vẫn tiến lên, Lang Thản nhíu mày, Cát Thiên Phương đi thăm dò còn chưa về.
Đội quân này cực kỳ quỷ dị, mấy năm qua đối thủ chủ yếu của quân Tống là người Liêu, Tây Hạ bận rộn tây chinh, trừ một lần Tây Hạ vương mười tuổi cưới Long Tương công chúa của nước Liêu, hai nước liên hợp giáp kích Hà Khúc thì Tây Hạ luôn yên tĩnh, nay đội quân này vượt Hoàng Hà với mục đích gì khó dự liệu.
Trước khi Địch Thanh tấn công Nam Kinh nước Liêu, Tống sứ Quách Ân bí mật tới Tây Hạ, chuẩn bị xúi dục Hỏa Xích Minh người trên danh nghĩa thống lĩnh Tả sương thần dũng quân ti đứng ở vị trí trung lập, không quấy nhiễu kế hoạch bắc chính của Đại Tống, đồng thời đảm bảo, nhất định giúp ông ta kiến lập thế lực của mình ở Tây Hạ, muốn tiền lương có tiền lương, muốn binh giáp có binh giáp.
Chuyện này nghe qua rất khó, chỉ cần Hỏa Xích Minh không phải kẻ ngốc là biết, Đại Tống có được Yến Vân, một cái quốc gia tàn tật từ khi sinh sẽ lập tức khôi phục thời kỳ đỉnh thịnh, mục tiêu tiếp theo là Tây Hạ.
Lúc này nếu Tây Hạ phát sinh nội chiến, nước Tống hưởng lợi.
Có điều Lang Thản biết cục diện của Hỏa Xích Minh rất tệ, cho dù Quách Ân mang tới một chén rượu độc, ông ta sẽ uống, nếu không sẽ chết khác.