Càng nói Vân Tranh càng chím đắm vào giấc mộng của mình, nói như trong cơn mê: – Chưa kể tới những người gánh hàng rong, nào là miến, hắc chi ma hồ, giác tử, quẩy nóng, trứng cháy, chẳng cần ăn hết, mỗi thứ nếm một miếng nhỏ thôi là đủ no nứt bụng không đi nổi.
– Có rất nhiều các cô nương xinh đẹp bê những cái mâm gỗ cực lớn, bên trên có chim nướng ròn, cá rút xương, gà thái sợi cay. Chân gà nướng nữa, ngon lắm, chẳng có mấy thịt đâu, toàn xương với gân, nhưng nhai rất thích, ăn kèm với một bát rượu nếp nữa thì tuyệt vời.
Vân Tranh nói vô cùng say mê, thực ra y miêu tả không tốt lắm, nhiều lúc nói không đầu không cuối, lẫn nhiều cảm xúc nên có phần hỗn loạn, chính vì cảm xúc đó đưa người xung quanh dễ dàng đi vào thế giới ảo tưởng của y.
Chẳng biết từ lúc nào có rất nhiều người tụ tập quanh Vân Tranh, trong bát toàn là các loại thịt tươi mới bắt trong ngày, nhưng chẳng ai chú ý ăn nữa, ngồi nghe chảy nước dãi.
Ngỗi Minh công chúa cũng chẳng thấy thịt gà ngon như vừa rồi, trong đầu chỉ có cảnh sắc tươi đẹp Vân Tranh vẽ ra, những nữ tử mỹ lệ mặc áo lụa, trên người tỏa hương thơm của mật, văn sĩ áo xanh với dải lụa buộc tóc dài phiêu phiêu trên phố, đó là thế giới mỹ lệ nhường nào.
Đột nhiên có giọng nói không hài hòa phá ngang: – Ta tới Tam Nhãn Kiều rồi, sao không thấy đẹp như ngươi nói, ở đó nhiều món ngon, song chỉ mỗi canh tiết ngan là nổi tiếng, cũng chẳng có gì đặc biệt.
Vân Tranh sực tỉnh rơi cái xương gà gặm dở bên mép, bực mình nhìn Cát Thu Yên, giọng có phần gay gắt: – Khi đi du ngoạn thì tâm cảnh là điều quan trọng nhất, ta dám cá rằng khi cô tới Tam Nhãn Kiều tâm sự trùng trùng, một người khóc không biết thương tâm, cười không thấy vui thì sống có khác gì đã chết, nói gì tới thưởng thức mỹ cảnh.
Cát Thu Yên hừ một tiếng không cãi lại, cúi đầu ăn cơm, nhưng lòng không khỏi suy nghĩ, tính lại từ lúc hiểu chuyện tới bây giờ, thời gian đi theo thương đội này là vui vẻ nhất, mặc dù toàn làm chuyện không đâu chẳng có mục đích gì, như học nấu cơm, làm các món ăn, nhưng thoải mái vô cùng, tài nghệ nấu nướng cũng tiến bộ nhanh chóng, có lẽ vì đó mới là những việc nữ nhân lên làm.
Vân Tranh múc cho Ngỗi Minh một bát cháo gà, gạo xanh cho vào bát sứ trắng, đẹp như bức tranh: – Bồi dưỡng thân thể cho tốt, hai trăm người chúng ta đều dựa vào cô mà sống đấy.
Ngỗi Minh công chúa cầm bát cháo, húp mấy miếng, nói dứt khoát: – Muốn sống thì không thể đi gặp đại vương, phải đi gặp đường ca Ninh Lệnh Ca của ta trước, huynh ấy là nhi tử được đại vương yêu quý nhất, nếu huynh ấy chịu giúp chúng ta, có thể qua được. Nhưng còn Một Tàng Ngoa Bàng ra sao thì ta không dám chắc..
– Cứ giao cho ta là được, cô chưa biết thôi, ở thảo nguyên Thanh Đường ta có danh thần y, trải qua cuộc chiến Khách La Xuyên, sĩ tốt bị thương nhiều, cô dẫn ta tới đó trị bệnh, Một Tàng Ngoa Bàng sẽ không giết ta đâu.Giác Tư La đã rỡ cầu nổi, nhưng bến đò thì vẫn còn, đó vốn là thôn trang có mấy chục hộ, nhưng khi đại quân tới họ ngay lập tức trốn vào núi, xem chừng mùa đông chưa qua thì bọn họ sẽ không về.
Bến đò có thuyền, không lớn, cũng chẳng có mái chèo, rất có ý vị “Mưa đổ chiều xuân sông chảy xiết, bến quê người vắng chiếc đò không.” Một sợi xích sắt bắc ngang qua Hoàng Hà, người muốn qua sông chỉ cần buộc thừng vào vòng sắt sau đó ngồi trên tuyền kéo là được, rất hợp lý. Người Thanh Đường cần muối đều vận chuyển qua đây, cả người Tây Hạ cũng không tùy ý phá đi cái xích sắt này, dù sao một bên cần mua, một bên cần bán.
Chiến tranh chỉ là tạm thời, giao dịch thì vĩnh viễn, vì thế mới có cái xích sắt muốn bắc qua sông phải tốn rất nhiều công sức này, vì thế mới có bến phà Diêm Tân nổi tiếng, có cái thôn nhỏ kia.
Nghe Tôn thất chỉ kể Vân Tranh chỉ muốn xách tai hết đám quan viên Đại Tống ra đây chỉ cho họ xem, vì luật lệ ngu xuẩn khiến bách tính vùng biên không có muối mà ăn, người Tây Hạ, người Thanh Đường mà chúng hay nói là đám man mọi cũng không làm cái chuyện ngu xuẩn như vậy.
Có câu Hoàng Hà trăm hại, chỉ giàu đất Sóc, Hoàng Hà khi mới chảy vào cao nguyên thì nước vẫn trong vắt, lượng nước cũng không nhiều, như thiếu nữ duyên dáng, có điều vừa qua hẻm núi, liền biết thành phụ nhân chua ngoa đanh đá, điên cuồng dày vò vùng đất Trung Nguyên, khiến cho đê của Biện Lương còn xây cao hơn cả tường thành.
Lãng Lý Cách là người đầu tiên qua sông, sau đó cưỡi ngựa biến mất, những người khác còn phải chờ đợi, khi hắn xác nhận an toàn.
Có một thiết diêu tử được cái lợi này, tránh được rất nhiều nguy hiểm,
Vân Tranh sau khi qua bờ bên kia, đứng trên bờ đê thì con vật đầu tiên nhìn thấy là sói, một con sói xanh, cùng lúc đó con sói cũng nhìn thấy Vân Tranh, thế là nó ngửa cổ hú dài, cả hoang nguyên tức thì vang vang tiếng sói tru.
Rất sợ con sói này bị bệnh chó dại, nâng tay lên, chỉ cần nó nhúc nhích là cho ba mũi tên vào mặt, nhưng nó lại nhảy xuống bãi sông uống nước.
Chó dại có một dấu hiệu rõ ràng là sợ nước.
– Đừng giết, để nó ăn thi thể, nếu không tới mùa xuân rất dễ bị bệnh ôn dịch.
Tôn thất chỉ nói với Vân Tranh một tiếng rồi đi lắp xe, đám la rất không nghe lời, đạp móng lung tung, tiếng sói tru làm chúng bất an, bị Tôn thất chỉ quất mấy roi mới chịu ngoan ngoãn.