Đuôi bò cạp!
Tuy nhiên sau cú đâm này, Tạ Liên cũng bóp trúng đuôi của nó, chuẩn xác tóm gọn cả con rắn bò cạp, tay dùng sức một chút, bóp cho nó ngất xỉu. Y bị đâm trúng nhưng sắc mặt không hề thay đổi, chỉ ném con rắn đã bất tỉnh xuống đất, nói: “Mọi người nhớ cẩn thận, quanh đây có lẽ vẫn còn rắn…”
Lời còn chưa dứt, cổ tay đã bị siết chặt, Tạ Liên ngẩng đầu lên nhìn, là Tam Lang nắm tay y. Tạ Liên sửng sốt, hỏi: “Tam Lang?”
Sở dĩ y hỏi vậy là vì sắc mặt của thiếu niên này bây giờ thật sự không ổn lắm, hoàn toàn không biết nên diễn tả bằng lời như thế nào, gần như khiến người ta không rét mà run.
Tam Lang nhìn chằm chằm vết thương nhỏ xíu trên mu bàn tay của Tạ Liên, trước đó vết thương này quả thật chẳng khác gì vết kim đâm, nhưng chất độc phát tán rất mạnh, mu bàn tay lập tức sưng to một cục màu đỏ tím, vết thương nhỏ xíu đó cũng căng lớn như vết dao rạch.
Tam Lang mặt mũi sa sầm, chẳng nói chẳng rằng, túm lấy Nhược Da, buộc nó thành một nút chết quanh cổ tay Tạ Liên, khóa đường chảy ngược của máu độc. Từ khi hai người quen biết nhau đến nay, Tạ Liên chưa bao giờ nhìn thấy nét mặt này của đối phương, y đang định mở miệng, Tam Lang lại rút một con dao găm từ bên hông một thương nhân. Thấy thế, Nam Phong hiểu ngay hắn muốn làm gì, tay phải bùng lên một ngọn lửa. Tam Lang cũng chẳng buồn nhìn Nam Phong, chỉ đặt mũi dao trên ngọn lửa hơ một hồi, hơ xong quay đầu lại, dùng dao găm cắt một dấu hình chữ thập tại miệng vết thương trên mu bàn tay của Tạ Liên, động tác vừa nhẹ vừa nhanh, sau đó cúi đầu xuống. Tạ Liên vội nói: “Không cần đâu. Độc tố của rắn đuôi bò cạp ghê gớm lắm, có hút cũng vô dụng thôi, đệ coi chừng mình trúng độc…”
Thiếu niên kia vẫn không nói tiếng nào, chỉ nắm chặt tay y, phủ môi lên. Chẳng hiểu tại sao, Tạ Liên cảm thấy cánh tay bị thiếu niên nắm khẽ run rẩy.
Bên kia, Phù Dao nói: “Huynh vậy mà cũng bị đâm trúng, đúng là xúi quẩy. Chắc gì hắn sẽ bị cắn trúng, huynh bắt gì mà bắt? Đúng là thêm phiền.”
Lời này nói đúng sự thật. Trên thực tế, giờ đây nhớ lại điệu bộ tùy thích của Tam Lang khi thắt rắn, Tạ Liên cũng cảm thấy chưa chắc Tam Lang sẽ bị cắn trúng, hoặc biết đâu Tam Lang vốn dĩ không để con rắn đuôi bò cạp này vào mắt. Nhưng không sợ nhất vạn, chỉ sợ vạn nhất, ngộ nhỡ Tam Lang thật sự không chú ý đến con rắn kia, bị cắn cho một cái, chẳng phải hối hận thế nào cũng vô dụng?
Y xua xua bàn tay lành lặn còn lại, nói: “Dù gì không đau cũng chẳng chết được, đừng để ý.”
Phù Dao hỏi: “Huynh không đau thật sao?”
Tạ Liên nói thật: “Thật mà. Không còn cảm giác gì nữa rồi.”
Lời này là thật. Bởi vì Tạ Liên số quá xui xẻo, đi trong núi sâu mười lần thì đạp trúng rắn độc hoặc đánh thức trùng độc này nọ hết tám lần, sớm đã bị đủ mọi độc vật cắn trăm ngàn lần, song có lẽ do đã làm thần quan, nên y vẫn cực kỳ ngoan cường không chết, nhiều lắm chỉ lên cơn sốt, sốt ba ngày ba đêm, sau khi tỉnh lại sẽ bình thường như trước. Hơn nữa cảm giác đau của y cũng không nhạy gì mấy, dù là cơn đau nào cũng đau mãi thành quen. Tạ Liên nói xong câu này, cuối cùng Tam Lang cũng ngẩng đầu lên. Chỗ sung đỏ trên mu bàn tay của Tạ Liên đã tiêu tan, mà bên môi thiếu niên là một vệt màu máu, ánh mắt hắn lạnh toát, tầm nhìn dời sang bên cạnh, dời đến con rắn đuôi bò cạp nằm dưới đất. Chỉ nghe một tiếng “phịch” thê thảm vang lên, con rắn tím đỏ kia tức khắc nổ thành một bãi thịt vụn màu tím đỏ.
Thấy con rắn kia thế mà lại nổ tan xác, mọi người bị dọa cho giật thót, nhưng cũng không biết do ai làm, tuy rằng máu không bắn lên người mình, song họ vẫn sợ hết cả hồn. Chỉ có Thiên Sinh còn nhớ Tạ Liên cũng bị đâm, vội vàng kêu lên: “Ca ca ơi, huynh cũng bị đâm trúng ư? Vậy huynh tính sao đây?”
Tạ Liên siết chặt băng vải quanh cổ tay, cười nói: “Bé ngoan, ta không sao. Vẫn sắp xếp như cũ, tiếp theo chúng ta phải vào thành tìm cỏ Thiện Nguyệt.”
Một thương nhân vội nói: “Các ngươi đi hả? Vậy bọn ta thì sao? Có phải bọn ta cũng cần phái một người đi không?”
Tạ Liên nói: “Các ngươi không cần đi, chỉ e cố địa của nước Bán Nguyệt nguy hiểm trùng trùng, thêm một người thêm một phần sơ suất. Sau khi tìm được cỏ Thiện Nguyệt, chúng ta sẽ mang nó về cho các ngươi trong mười hai canh giờ.”
Vài thương nhân đua nhau nói: “Thật… thật sao?! Vậy cảm ơn các ngươi lắm…” “Thế này thật ngại quá…”
Nhưng mà, Tạ Liên vừa mở miệng nói câu tiếp theo, sắc mặt bọn họ tức thì thay đổi. Tạ Liên nói: “Vì để nhanh chóng tìm được nước Bán Nguyệt, cảm phiền các ngươi tạm thời cho chúng ta mượn vị tiểu huynh đệ này dẫn đường.”
Người y muốn mượn, dĩ nhiên là A Chiêu. Nếu vừa rồi trên mặt các thương nhân tràn đầy cảm kích và mừng rỡ, bây giờ phần lớn là lưỡng lự. Tạ Liên cũng tỏ tường, tất nhiên bọn họ đang lo người chỉ đường mà mình dẫn theo tìm được cỏ Thiện Nguyệt rồi chạy mất, cho dù A Chiêu vẫn còn lương tâm không bỏ trốn với y, chịu quay trở về đây, thì thời gian cũng đã bị trì hoãn rất nhiều. Tuy nhiên, bọn họ thật sự không muốn đến nơi quỷ quái “Mỗi lần qua cửa ải, mất tích hơn phân nửa”, thế nên xoắn xuýt vô cùng. Nói chung đây cũng là chuyện thường tình, hoàn toàn có thể hiểu được, vì vậy Tạ Liên lại bổ sung một câu: “Nhưng sợ rằng sẽ còn thứ khác đến tập kích mọi người, nên Phù Dao à, ngươi ở lại đây trông chừng bọn họ đi.”
Để một người ở lại đây, xem như là lời đảm bảo bọn họ nhất định sẽ trở về. Cuối cùng các thương nhân đều gật đầu, nói: “Được rồi. Chỉ cần A Chiêu đồng ý đi với các ngươi.”
Tạ Liên bèn quay sang A Chiêu, nói: “Tiểu huynh đệ, ngươi bằng lòng giúp một tay không? Không bằng lòng cũng không sao.”
A Chiêu gật đầu, nói: “Cũng được, có điều thật ra thành cổ Bán Nguyệt cũng dễ tìm, đi tiếp theo hướng này là đến.”
Sau khi tạm biệt các thương nhân, A Chiêu đi trước nhất dẫn đường, Tạ Liên, Tam Lang và Nam Phong theo sát phía sau. Đi một hồi, Tạ Liên mở miệng hỏi: “A Chiêu, vùng này thường có rắn đuôi bò cạp lui tới hả?”
A Chiêu đáp: “Rắn đuôi bò cạp không thường lui tới đây. Ta cũng mới thấy lần đầu tiên.”
Tạ Liên gật đầu, không đặt câu hỏi nữa. Trên thực tế, y từng sống lân cận nước Bán Nguyệt một thời gian ngắn, nhưng vừa rồi cũng là lần đầu tiên nhìn thấy rắn đuôi bò cạp, bởi vậy câu trả lời này cũng không có gì không ổn. Phát hiện ý đồ của Tạ Liên, Nam Phong hỏi khẽ: “Huynh nghi ngờ tên A Chiêu này à?”
Tạ Liên cũng nói khẽ: “Dù gì cũng đã mang hắn ra, theo dõi cẩn thận là được.”
Nếu là ngày xưa, người trước tiên nói chuyện với y tất nhiên là Tam Lang, nhưng không biết có phải do chuyện hồi nãy không, sắc mặt thiếu niên nọ bây giờ vẫn không được tốt lắm, im lìm chẳng nói chẳng rằng. Tạ Liên không biết xảy ra chuyện gì, cũng không biết mở lời với đối phương thế nào, đành phải tiếp tục đi.
Bốn người đi giữa sa mạc mênh mông gần nửa canh giờ, gió bão đã đi xa, không có bão cát chặn đường nên tiến độ rất nhanh. Dần dà, có thể trông thấy một ít cỏ dại sinh tồn hết sức gian khổ dọc đường đi, mọc trong khe hở của đá núi và cát. Mãi khi mặt trời sắp xuống núi, cuối cùng Tạ Liên nhìn thấy một tòa thành cổ ở chân trời.
Tòa thành cổ này rất khó phát hiện, bởi vì nó mang màu vàng đất, hòa làm một với cát vàng mịt mù, còn bức tường thành đã đổ sụp, vài phần chôn vùi dưới cát vàng. Đi đến gần, bọn họ mới phát hiện bức tường thành này cao chót vót, chỗ cao nhất ước chừng vài chục trượng, không khó để tưởng tượng hình dáng vĩ đại ngày xưa của nó.
Băng qua ủng thành, bốn người chính thức đặt chân vào biên giới Bán Nguyệt cố quốc.
Qua cổng là gặp một con đường lớn, vẫn vừa rộng vừa trống hoác như cũ, hai bên đường toàn là vách đổ tường xiêu, nhà cửa lụp xụp, đá tảng vỡ nát, mảnh gỗ gãy vụn. Hẳn do dặn đi dặn lại mãi thành quen, A Chiêu nói: “Chư vị cẩn thận, đừng đi lung tung.” Tất nhiên ba người không cần A Chiêu dặn dò những điều đó. Có lẽ vì tòa thành cổ này kém xa nước Bán Nguyệt trong lòng mình, Nam Phong ngờ vực nói: “Đây là nước Bán Nguyệt ư? Sao nhỏ xíu vậy, còn không bằng một tòa thành nữa.”
Tạ Liên nói: “Quốc gia nhỏ giữa sa mạc, ốc đảo to chừng nào, quốc gia lớn chừng nấy. Vào thời kỳ hưng thịnh, nước Bán Nguyệt cũng chỉ có tầm mười ngàn người, nó thật sự chỉ lớn thế này thôi, nhưng lúc đông người cũng được lắm, rất náo nhiệt.”
Nam Phong quan sát một phen, nói: “Đánh quốc gia này, ắt chỉ là chuyện trong vài ngày.”
Tạ Liên lắc đầu, nói: “Chưa chắc đâu. Nam Phong, ngươi đừng coi thường người Bán Nguyệt. Tuy dân số của bọn họ chỉ tầm mười ngàn người, nhưng quân đội lại duy trì ở mức hơn bốn ngàn suốt quanh năm. Bọn họ nam nhiều nữ ít, loại trừ người già yếu, loại thêm nông dân canh tác, hầu như tất cả đàn ông trai tráng còn lại đều gia nhập quân đội. Chưa kể binh sĩ Bán Nguyệt quả thật hận không thể người nào cũng cao ba mét, tính cách dũng mãnh hiếu chiến, tay cầm gậy nanh sói, dù lồng ngực cắm đao cũng dám xông về phía trước, khó đánh cực kỳ.”
Dường như hơi bất ngờ, A Chiêu đưa mắt nhìn Tạ Liên, nói: “Vị công tử này có vẻ biết không ít nhỉ.”
Tạ Liên giữ nguyên nụ cười, đang định thuận miệng nói tào lao, lúc này Nam Phong lại hỏi: “Bức tường kia là gì thế?”
Thứ mà Nam Phong chỉ, chính là một kiến trúc đất vàng khổng lồ ở đằng xa.
*Kiến trúc đất vàng: một loại kiến trúc từ thời cổ đại được làm chủ yếu từ đất cát màu vàng (Đất sét, đất dính).
Nói là kiến trúc có vẻ không đúng lắm, bởi vì nghiêm túc mà nói, chỉ có thể gọi nó là một thứ được bao vây bởi bốn mặt tường đất đồ sộ, không có cửa, cũng không có nóc. Chỉ có bốn mặt tường đất, mỗi mặt đều cao hơn mười trượng (33 mét), đỉnh tường cắm một cây cột, thứ rách rưới không biết là cờ hay gì khác đang phất phơ theo gió. Không hiểu tại sao, nhìn mà khiến lòng người hơi ớn lạnh.
Tạ Liên quay đầu nhìn lướt qua, nói: “Đó là hố tội nhân.”
Vừa nghe tên là biết chắc chắn không phải thứ gì tốt, Nam Phong nhíu mày: “Hố tội nhân?”
Trầm ngâm giây lát, Tạ Liên nói: “Ngươi có thể xem nó như một nhà giam, là nơi chuyên giam giữ kẻ có tội.”
Nam Phong hỏi: “Ngay cả cửa cũng không có thì làm sao giam giữ? Chẳng lẽ ném thẳng từ trên xuống dưới sao?”
Tạ Liên đang suy nghĩ có nên nói hay không, Tam Lang chợt lên tiếng: “Ném xuống. Hơn nữa bên dưới toàn là rắn rết có độc và thú dữ đói khát.”
Nghe Tam Lang cuối cùng cũng mở miệng, Tạ Liên nhẹ nhõm phần nào, y đưa mắt nhìn đối phương, nhưng Tam Lang chỉ nhìn y chốc lát rồi cũng dời mắt đi. Nam Phong mắng: “Mẹ nó đây mà là nhà giam khỉ gì! Đây rõ ràng là cực hình, thật quá sức độc ác. Nếu người Bán Nguyệt không phải đầu óc có bệnh thì là hung tàn thành tính.”
Tạ Liên xoa xoa ấn đường, nói: “Cũng không hẳn vậy, trong số người Bán Nguyệt cũng có người rất đáng yêu…” Lúc này, y bỗng dưng nghẹn lời, nhíu mày nói: “Khoan đã.”
Ba người còn lại dừng bước ngay, Tạ Liên giơ tay lên, hỏi: “Các ngươi nhìn cây cột trên cái hố kia xem, có phải đang treo một người không?”
Mặt trời lặn về hướng Tây, màn đêm buông xuống, khoảng cách lại khá xa, rất khó nhìn rõ rốt cuộc thứ gì bị treo trên cây cột kia, nhưng nhích đến gần một chút, nhìn đường nét của vật bị treo, rõ ràng là một người áo đen nhỏ gầy, quần áo rách rưới, bị treo trên hố tội nhân, hệt như một con búp bê rách, để mặc gió thổi đung đưa qua lại.
Tam Lang nói: “Đúng vậy, còn là một cô gái nữa.”
Vừa thấy có người bị treo ở đó, sắc mặt A Chiêu trắng bệch. Cảnh tượng này thảm thương và quỷ dị cùng cực, rốt cuộc khiến cho người bình tĩnh như hắn cũng chịu không nổi. Đúng lúc này, Tam Lang khẽ nghiêng đầu, trầm giọng nói: “Có người.”
Không chỉ riêng Tam Lang cảm giác được, Tạ Liên cũng nghe được tiếng bước chân cực nhẹ. Hai bên đường toàn là nhà cửa đổ nát, bốn người lập tức tản ra trốn vào đó. Tạ Liên và Tam Lang cùng núp trong một gian nhà xập xệ, Nam Phong và A Chiêu thì núp trong gian nhà đối diện. Không lâu sau, phía cuối con đường tan hoang, xuất hiện một nữ đạo sĩ áo trắng.
Nàng ta mặc áo đạo sĩ trắng muốt lả lướt, cánh tay khoác phất trần, bước đi trên đường, nhìn ngang nhìn dọc, hai mắt sáng rực, dáng vẻ ấy hệt như nơi này không phải một tòa thành cổ bỏ hoang nhiều năm, mà là một vườn hoa nhỏ sau nhà mặc cho nàng ta thỏa thích dạo chơi. Mà cách đó không xa, một nữ đạo sĩ áo đen chắp tay mà đi, chậm rãi bước sau lưng nàng.
Nữ đạo sĩ áo đen này mặt tuy đẹp nhưng lạnh buốt, ánh mắt tựa dao găm ra khỏi vỏ, mái tóc dài xõa tung, toàn thân như tỏa ra khí lạnh nhàn nhạt. Tuy rằng nàng ta đi sau nữ đạo sĩ áo trắng, song chẳng có ai xem nàng là thuộc hạ của người nào.
Chính là hai người mà bọn họ nhìn thấy bên ngoài tòa nhà nhỏ bỏ hoang vào giờ Ngọ.
Lúc đó thân hình hai người này chợt lóe lên, vóc dáng người áo đen lại cao gầy, Tạ Liên không thấy rõ rốt cuộc là nam hay nữ, bây giờ mới biết thì ra cả hai đều là nữ. Người mặc áo trắng chỉ có thể là quốc sư Bán Nguyệt, vậy người áo đen là ai đây?
Quốc sư Bán Nguyệt kia thong thả vẫy phất trần, nói: “Mấy kẻ đó lại trốn đi đâu rồi? Mới vừa không để ý đã chẳng thấy tăm hơi, lẽ nào muốn ta tìm từng người một ra giết sao?”
Tạ Liên nghĩ thầm, quả nhiên bọn họ vừa vào thành đã lập tức bị theo dõi.
Nữ đạo sĩ áo đen đi tới, mặt lạnh tanh lướt qua người nàng, nói: “Ngươi có thể gọi đám bạn của ngươi đến giết hộ.”
“Đám bạn” này, chỉ có thể ám chỉ đám binh sĩ Bán Nguyệt lực sát thương siêu mạnh kia. Quốc sư Bán Nguyệt cười nói: “Ta không thích gọi người khác, ta thích gọi ngươi đó. Vui chưa?”
Nữ đạo sĩ áo đen không chừa cho người ta chút mặt mũi nào, lạnh lùng nói: “Bị ngươi gọi đến làm loại chuyện này có gì đáng vui chứ. Đi nhanh lên.”
Quốc sư Bán Nguyệt nhướn lông mày, rồi cũng đi nhanh lên thật. Nghe đối thoại của các nàng, có vẻ giống người quen cũ quan hệ thân thiết. Chắc chắn hai vị này không phải người bình thường, nữ đạo sĩ áo đen tất nhiên không phải hạng vô danh. Nữ giới quen biết với quốc sư Bán Nguyệt, có ai đây? Đồng môn bí ẩn (đồng môn = bạn cùng học một thầy)? Hay thật ra nước Bán Nguyệt có một vị nữ vương hoặc nữ Tướng quân?
Tạ Liên vừa gấp rút suy tư vừa nín thở, chẳng hề muốn bị phát hiện vào lúc này. Bây giờ xem ra, quốc sư Bán Nguyệt này tính tình vô cùng nhanh nhạy, lỡ như trông thấy bọn họ, hứng lên gọi đám binh sĩ Bán Nguyệt cao ba mét cầm gậy nanh sói trong truyền thuyết kia tới, thế lại phải tẩn nhau trong một khoảng thời gian. Mười hai canh giờ, ít một canh giờ nguy hiểm thêm một phần. Nào ngờ thể chất của y chính là càng không muốn cái gì tới, cái đó sẽ càng tới. Lúc đi ngang qua trước gian nhà này, nữ đạo sĩ áo đen thình lình dừng bước, ánh mắt sắc lẻm lướt qua đây.
Quốc sư Bán Nguyệt kia đã đi lên trước vài bước, thấy đồng bạn dừng bước thì xoay người ra sau, hỏi: “Uầy, có đi không thế?”
Nữ đạo sĩ áo đen nói: “Ngươi, lùi lại.”
Quốc sư Bán Nguyệt “ồ” một tiếng rồi lùi lại thật. Nữ đạo sĩ áo đen có vẻ đang định nhấc tay, đột nhiên, con đường dài đối diện nổ ầm một tiếng!
Đối diện, gian nhà mà bọn Nam Phong đang ẩn náu bất thình lình sụp xuống. Gian nhà này vừa sụp, trái phải đồng loạt sụp theo, trên đường thoáng chốc cát bụi cuồn cuộn, một bóng đen nhảy phắt ra giữa cát đất đá bay mù trời, tung một ngọn lửa cháy rực, đánh về phía quốc sư Bán Nguyệt. Nữ đạo sĩ áo đen xoay người lại, chắn trước người quốc sư Bán Nguyệt, tay trái vẫn chắp sau lưng, tay phải vớ đại một cái, nắm ngọn lửa đó trong lòng bàn tay, ném trả lại cho đối phương. Bóng đen kia cũng nhanh như chớp, lắc mình né tránh, sau vài lần thỏ vừa nhảy lên chim bay xuống bắt (hình dung động tác nhanh nhẹn), bóng đen kia cuốn theo một trận cát bụi đi mất. Quốc sư Bán Nguyệt đuổi theo, còn nữ đạo sĩ áo đen liếc mắt nhìn sang đây một cái, bấy giờ mới đuổi theo.
Biến cố xảy ra chỉ trong khoảnh khắc, Tạ Liên nhủ thầm: “Nam Phong giỏi!” Lòng biết tất nhiên là Nam Phong trốn ở đường đối diện thấy bên này sắp bị phát hiện nên giương đông kích tây, giúp bọn họ dụ kẻ địch đi. Nam Phong chỉ nhảy ra một mình, vậy A Chiêu chắc chắn còn trong nhà. Sau khi xác định ba người kia đều đã đi xa, Tạ Liên kéo Tam Lang ra ngoài, nói: “A Chiêu, ngươi còn sống chứ, có bị thương không?”
Lát sau, dưới gian nhà đổ sụp truyền đến một giọng bí xị: “… Không có gì.”
Tạ Liên yên tâm, nói: “Không có gì là tốt rồi.”
Mặc dù y tin rằng lúc đánh sập gian nhà, tất nhiên Nam Phong đã kiểm soát cẩn thận, chừa lại không gian cho người sống khác, nhưng chung quy vẫn phải xác nhận mới yên tâm được. Tạ Liên dùng một tay nhấc một cây cột nhà mục nát lên, không lâu sau, A Chiêu vất vả bò ra từ dưới gian nhà, mặt và đầu cổ toàn là bụi, hắn tiện tay phủi mấy cái, sắc mặt lại hờ hững như thường.
Tạ Liên hỏi: “Bây giờ chúng ta chỉ còn lại ba người. Nam Phong bị truy đuổi chạy mất rồi, chúng ta phải tăng tốc mới được. A Chiêu, ngươi biết cỏ Thiện Nguyệt sinh trưởng tại chỗ nào trong thành chứ?”
A Chiêu lại lắc đầu, nói: “Xin lỗi. Ta chỉ biết vị trí của thành cổ chứ chưa đến bao giờ, cũng không rõ cỏ Thiện Nguyệt mọc ở đâu.”
Bên cạnh, Tam Lang nói: “Nghe đâu cỏ Thiện Nguyệt thích âm, kích cỡ thấp bé, gốc rễ cực mảnh, phiến lá lại khá lớn, hình dạng tương tự một quả đào miệng nhọn, chi bằng huynh đi tìm xung quanh kiến trúc đồ sộ kia đi.”
Cân nhắc một lát, Tạ Liên hỏi: “Kiến trúc đồ sộ?”
Nói đến kiến trúc đồ sộ, trong một quốc gia, còn kiến trúc nào đồ sộ hơn hoàng cung? Hơn nữa trong truyền thuyết thần thoại kia, hoàng hậu ngắt một nhúm cỏ Thiện Nguyệt sau buổi tiệc rượu, từ đó cũng có thể giải thích, cỏ Thiện Nguyệt có khả năng mọc trong hoàng cung.
Ba người nhìn ra xa một phen, quả nhiên trông thấy một tòa cung điện dựng nên bằng gỗ và gạch đá trong thành.
Nhìn từ xa, cung điện đó còn có chút khí thế, nhưng khi nhìn gần, mức độ xập xệ cũng chỉ đỡ hơn những gian nhà trên đường một chút. Băng qua cổng cung điện, chính là một vườn hoa rộng lớn. Có lẽ trước đây nơi này không phải là vườn hoa mà là một quảng trường gì đó, nhưng hiện tại bỏ hoang nhiều năm, chỉ còn thừa lại một mảnh đất mọc đầy các loại thực vật màu xanh.
Đúng thế, chân không giẫm cát đất mà là bùn đất, có thể là vết tích còn sót lại của ốc đảo. Cỏ Thiện Nguyệt, có khả năng đang ẩn núp trong hằng hà sa số thực vật này. Tạ Liên nói: “Tranh thủ thời gian tìm đi. Chúng ta chỉ có mười hai canh giờ, có điều vẫn phải cẩn thận rắn đuôi bò cạp nhé.”
A Chiêu đáp lời, Tam Lang cũng “ừ” một tiếng, ba người đều cúi đầu tìm kiếm. Tạ Liên chợt nhớ ra, nếu quốc sư Bán Nguyệt có thể điều khiển rắn đuôi bò cạp, vậy sau khi đến địa bàn của ả, ắt sẽ xuất hiện nhiều rắn đuôi bò cạp hơn. Nhưng sau khi ba người tiến vào thành cổ Bán Nguyệt, một con rắn đuôi bò cạp cũng không thấy.
Y đứng thẳng lên, đang định mở miệng, lúc này tay bỗng mò trúng một vật hình trụ.