Nạp Thiếp Ký – Chương 471: Vết chém đặc biệt (2) – Botruyen

Nạp Thiếp Ký - Chương 471: Vết chém đặc biệt (2)

“Vết thương chém bằng vật bén rất bóng, điều này thì muội biết rồi.” Dương Thu
Trì buông eo thon của nàng ra, dùng châm thăm chỉ vào hơi thô trên vết cắt ở
cổ của nạn nhân trong quan tài: “Nhưng vết thương do chặt chém này có chỗ lại
không bóng loáng, có chút hơi xướt hơi thô, có vẻ như là hung khí chỗ này bị
cùn… là vết thương do bị xé rách!”

Tống Vân Nhi hưng phấn reo lên: “Muội biết rồi, hung thủ dùng đao chém, chỗ
chém này có một vết mẻ hoặc cong quằn đi, tạo ra một vết hằn.”

Dương Thu Trì trợn mắt nhìn nàng: 'Coi muội đó, vậy mà còn nói mình ngốc, ta
mới mở đầu có chút mà muội đã đoán ra rồi.”

Tống Vân Nhi có chút đắc ý: “Cái này người chết đã lâu, nếu là người mới chết
thì muội đã phát hiện ra lâu rồi.”

“Ừ, vậy muội hãy can cứ vào phát hiện này, nói con đường mà muội sẽ dùng để
phá án đi!”

Tống Vân Nhi trầm ngâm một chút, nói: “Từ những phán đoán nãy giờ, hung thủ có
khả năng dùng đao có vết mẻ để chém. Với đao mà nói, thì vết xướt như vậy có
thể coi là từ đao có vết mẻ khá to rồi. Nếu chúng ta đem đối tượng hiềm nghi
thu hẹp lại trong cẩm y vệ của Kỷ Cương, thì căn cứ vào những manh mối đã điều
tra, chúng ta có hai đường để phá án. Một là án này phát sinh vào ngày 3 tháng
chín năm rồi, do một cẩm y vệ bị bệnh hoa liễu thực hiện. Hai là kiểm tra cẩm
y vệ sử dụng Tú Xuân đao có vết mẻ bằng hạt gạo. Đúng không?”

Dương Thu Trì gật gật đầu: “Rất đúng, nhưng mà, đường manh mối thứ hai vẫn còn
chưa thể con là phương hướng phá án chủ đạo.”

“Vì sao?” Tống Vân Nhi hiếu kỳ hỏi.

“Cẩm y vệ trong kinh thành có hơn vạn, chúng ta chẳng lẽ đi kiểm tra hết từng
thanh đao hay sao?” Dương Thu Trì mỉm cười, “Hơn nữa, hung thủ tuy hầu như là
cẩm y vệ của Kỷ Cương, nhưng hung thủ tiến hành ám sát không nhất định là
đương nhiên sử dụng Tú Xuân đao, nếu như dùng những loại đao khác, cho dù
chúng ta kiểm tra hết cả hơn vạn thanh Tú Xuân đao trong kinh thành, cũng chưa
chắc là tìm ra người này.”

“Hi hi, cái đó cũng phải. Vậy manh mối này cơ bản chẳng dùng được gì hay sao?”

“Cái đó cũng không thể nói như vậy,” Dương Thu Trì đáp, “Chí ít, đặc điểm này
cũng có thể khiến sau khi chúng ta phát hiện ra hiềm nghi phạm tội rồi, sẽ
tiến hành xác định sau. Cẩm y vệ vừa mắc bệnh hoa liễu vừa có vết rạn trên
đao, cơ bản có thể xác định là hung thủ rồi.”

“Ừ, nhưng mà nếu trên lưỡi đao có chỗ mẻ như hạt gạo, thì đao coi như sắp
không dùng được rồi, không có giá trị đánh đấu nữa, phải đi đánh làm lại.”

Dương Thu Trì động tâm: “Đúng a, Tú xuyân đao của cẩm y vệ khi phát ra, thu
hồi lại để chỉnh sửa đều do quân giới khố của cẩm y vệ quản lý. Nếu như hung
thủ sử dụng Tú Xuân đao, hơn nữa lưỡi của thanh đao này bị mẻ, thì không thể
dùng nữa, mà đến quân giới khố đăng ký đổi hay sửa lại. Tra một chút sổ sách
ghi chép vào tháng chín năm rồi, có thể còn có phát hiện gì đó!”

Hai người tìm được manh mối này, đều vô cùng cao hứng.

Tiếp đó, Dương Thu Trì lấy mẫu máu của người chết, kiểm tra xong, Tiết Lộc
liền tới hỏi tình hình kiểm nghiệm, Dương Thu Trì không tiện nói kỹ với ông
ta, chỉ đáp là đã phát hiện một số mấu chốt, cần phải tiếp tục theo dấu điều
tra.

Trở về Dương phủ, Dương Thu Trì đến thư phòng trước để tiến hành kiểm nghiệm
thanh chủy thủ.

Căn thư phòng cũ vốn dùng làm phòng tân hôn cho hắn và Lữ Hoàn Cơ do hoàng
thượng tứ hôn, rồi sau đó Lữ Hoàn Cơ dùng làm chỗ ngoại tình… đã khiến Dương
Thu Trì cảm thấy bức bối, nên đã ra lệnh phá hủy xây lại, hơn nữa còn án chiếu
theo ý hắn mà xây. Hiện giờ, bình điện hấp thu năng lượng mặt trời đã được ẩn
giấu rất tốt, và cái tủ hợp kim của hắn cũng được đặt ở vị trí khá an toàn và
bí mật.

Dương Thu Trì lấy thanh chủy thủ ra, dùng kính phóng đại nghiên cứu dây thừng
quấn quanh cán đao, không phát hiện dấu tay máu, xem ra sau khi hung thủ đâm
một đau, trước khi máu ứa ra tay đã buông bỏ cán dao, hoặc có thể thẳng thừng
ở cự li nào đó phóng chủy thủ cắm thẳng vào tim nạn nhân.

Như vậy có thể nói, trên chủy thủ không thể lưu lại dấu tay máu, hắn chỉ đành
tìm kiếm dấu tay vô hình do mồ hôi để lại thôi.

Dương Thu Trì dùng bàn chảy từ tính lấy dấu tay cẩn thận quét lên cán đao, lấy
được mấy dấu tay nhợt nhạt và khiếm khuyết, nhưng cũng khiến hắn cao hứng phi
thường. Hắn lập tức tiến hành so sánh dấu vân tay với các bộ khoái của nha môn
là những người đến khám hiện trường lúc đó.

Sau khi so sánh một hồi, Dương Thu Trì ngẩn ngơ, vì những dấu tay tàn khuyết
trên cán đao đều là của bộ khoái tham gia khám tra hiện trường lưu lại.

Chẳng lẽ hung thủ không hề lưu lại dấu tay trên đao?

Con người ta không phải khi sờ chạm vào bất kỳ cái gì cũng lưu lại dấu tay. Để
có thể lưu lại dấu tay, hay là có thể lưu lại dấu vân tay mà kỹ thuật hiện hữu
có thể thu lấy được, thì phải chịu rất nhiều nhân tố ảnh hưởng, chủ yếu là do
đặc tính của bản thân vật thể tiếp xúc, sau đó là tình huống mồ hôi tay của
con người. Đương nhiên, còn có sự ảnh hưởng của kỹ thuật và thủ đoạn thu mẫu
vân tay này. Nhân tố ảnh hưởng đến việc lấy mẫu vân tay quá nhiều, do đó lấy
không được dấu vân tay cũng là chuyện rất đỗi bình thường.

Đương nhiên, còn có một số tình huống khác, ví dụ như hung thủ sử dụng bao tay
hay các công cụ che phủ bàn tay lại, ngăn trở lưu lại dấu vân tay này. Rốt
cuộc là nguyên nhân gì thì chưa thể biết được, nhưng hiện giờ chưa lấy được
dấu tay của hung thủ là sự thật bày ra trước mắt Dương Thu Trì.

Dương Thu Trì lấy mẫu máu xét nghiệm nhóm máu trên dao, thấy phù hợp với người
chết, đều là nhóm B, trong khi phân tích tinh dịch thu được ở hiện trường, thì
hung thủ có nhóm máu A, nhưng vậy cho thấy trên đao không hề lưu lại máu của
hung thủ (nếu có trường hợp ẩu đả hay chống cự xảy ra).

Việc làm này trông có vẻ vô ích, nhưng kỳ thật không phải vậy. Nếu như trên
đao phát hiện máu có nhóm khác, thì đó ắt là một manh mối trọng yếu, điều tra
hình sự thường phải tận hết khả năng phát hiện manh mối, rồi căn cứ manh mói
tìm kiếm người hiềm nghi. Cho nên, công tác kiểm nghiệm pháp y quy định rất rõ
các hạng mục kiểm nghiệm thường quy, chính là đề phòng bỏ qua những manh mối
quan trọng. Những kiểm tra xem ra vô dụng căn cứ vào án tình thế này tuyệt đối
không được bỏ qua, nhân vì không ai có thể ngờ trong đám mây lại có nước mưa,
manh mối trọng yếu để phá án biết đâu sẽ nằm đâu đó trong số chi tiết vô dụng
này.

Chiều tối hôm đó, Mã Độ và Ngưu Đại Hải mang theo một tập tờ ghi chép thật dày
tới Dương phủ.

Mã Độ khom người nói: “Đại nhân, ti chức và Ngưu thiên hộ mang theo người đến
các lang trung của cẩm y vệ ở kinh thành tiến hành điều tra cẩn thận, tra hỏi
mọi lang trung, và tra xét sổ đăng ký trị liệu tương ứng, xác định vào tháng
chín năm rồi có tổng công 127 cẩm y vệ đến lang trung trị bệnh. Ti chức đã lấy
những chỗ đăng ký và phương thuốc kê khai đến đây.”

Mẹ! Dương Thu Trì mắng thầm một câu, sao nhiều cẩm y vệ bị bệnh hoa liễu vậy
trời! Thật là đám sắc lang quỷ đói mà! Nhân vì Minh triều việc ca xướng chơi
lầu xanh là công khai và hợp pháp, mại dâm chơi hoa là hợp pháp nên loại bệnh
này không húy kỵ gì như thời hiện đại, cùng không hề có chuyện thẹn thùng giấu
giếm không đi khám chữa bệnh (Xem thêm chú thích (*)). Do đó,con số này xem ra
là chuẩn xác, đối với việc tra án rõ ràng là vô cùng có ích.

Nhưng trong hơn trăm người này, làm sao tra ra hung thủ đây?

Chú thích:

Nghề ca kỹ và Bệnh hoa liễu:

Nghề ca kỹ ra đời trước cả nghề con hát và là một trong ba ngành nghề (thầy
giáo, thầy thuốc, con đĩ) ra đời sớm và tồn tại trong mọi thời đại. Nghề này
có từ thời Xuân Thu bên Tàu, do tướng quốc Quản Trọng khai sáng. Thuở xưa, khi
Tề Hoàn công mới làm vua nước Tề, Quản Trọng có dâng một kế sách nhằm tăng thu
ngân sách. Một trong những điểm của kế sách là việc lập nên những nhà Nữ Lưu,
dùng ca nữ phục vụ múa hát và tình dục cho quân lính và mọi người vào vui chơi
thu tiền (Thời đó chưa hề có khái niệm về “thanh lâu” hay “hồng lầu” gì cả).
Đại ý của việc lập ra nhà Nữ Lưu này như sau:

– Không ai muốn cưới xin gả bán, nạp thiếp, thêm hầu chỉ vì một chuyện trăng
hoa. Vì cưới xin đụng chạm nhiều tới quyền lợi của các bên liên quan trong một
gia đình họ tộc, phát sinh ra đủ thứ chuyện lằng nhằng rắc rối. Giải quyết
những vụ lằng nhằng này ngay sau những lần trăng hoa với một số bạc nho nhỏ
thì quả là hợp tình hợp lý.

– Nếu chỉ vì chuyện trăng hoa mà phải tăng thê tăng thiếp, thì nó sẽ là
nguyên nhân gia tăng mâu thuẫn trong xã hội. Bất kỳ xã hội nào thì người giàu
cũng chiếm tỷ lệ thấp; người nghèo chiếm tỷ lệ cao. Người giàu sẽ lấy nhiều vợ
(nếu được phép); người nghèo chỉ còn cách xem xem rước dâu và mơ tưởng, hoặc ở
vậy suốt đời, chỉ cưới được vợ xấu. Và nếu không có cách giải quyết hợp lý,
các cuộc chiến sẽ nổ ra nhằm thay đổi sự bất công xuất phát từ phân phối phụ
nữ trong xã hội phong kiến này.

Trong văn học, người Trung Quốc gọi các cô làm nghề xướng ca là kĩ nữ. Kĩ nữ
nguyên nghĩa chỉ là người con gái làm nghề ca xướng, múa hát. Chữ kĩ (bộ nữ)
của tiếng Hán được Việt Nam ta đọc Nôm thành đĩ. Kĩ nữ của Tàu trở thành Con
đĩ của ta. Kỹ nữ lúc đầu chỉ có nghĩa là người con gái làm nghề hát xướng chứ
không phải là con đĩ làm nghề mại dâm như ngày nay! Đó là một nghề rất lịch
sự, các quan ăn uống vui chơi, các cô hầu rượu, múa hát những bài do các quan
yêu cầu. Nhưng sau đó, những chầu hát dần dần bị biến thành nơi cợt nhả, bá
vai gối đùi, là cái cớ cho những trận trác táng, tằng tịu, dâm loàn. Sự biến
chất này cũng tương tự như ý nghĩa của từ Thanh lâu (lầu xanh) và Hồng lâu
(lầu hồng). Lầu xanh lúc đầu dùng để chỉ nhà sang trọng. Đến khoảng đời Đường
thì được dùng đển chỉ nơi ở của kĩ nữ, và cuối cùng trở thành:

“Lầu xanh có mụ Tú bà,

Làng chơi đã trở về già hết duyên” (Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Và kèm theo hiện tượng kỹ nữ, khách làng chơi, dâm loàn và tình dục không an
toàn này, đã phát sinh những bệnh hoa liễu từ ngày xưa. Bệnh phổ biến nhất đề
cập từ thời xưa là bệnh lậu (có nhiều truyền thuyết liên quan đến Dương Quý
Phi, thời Đường) (?).

Bệnh lậu (gonorrhea) là một bệnh lây qua đường sinh dục, gây ra bởi vi trùng
có tên là Neisseria Gonorrhoeae. Bệnh lậu đã được biết đến từ hàng nghìn năm
nay. Các thầy thuốc thời cổ đại Hy Lạp gọi lậu là căn bệnh của những người ăn
chơi trác táng, chìm đắm trong nhục dục. Vi trùng lậu có thể truyền từ người
này sang người khác trong khi giao hợp (qua âm đạo, miệng, hoặc hậu môn), và
gây ra nhiễm trùng ở cổ tử cung, âm đạo hoặc niệu đạo (đường dẫn nước tiểu từ
bọng đái, bàng quang, ra ngoài).

Việc điều trị các loại bệnh này hiện nay chủ yếu là dùng kháng sinh, trị dứt
hoàn toàn theo chỉ định của bác sĩ. Ngày xưa, chưa có kháng sinh thì làm thế
nào? Có nhiều bài thuốc trị bệnh này, các vị chủ yếu từ diêm sinh (muối lưu
huỳnh), bản lam căn, thù lũ… có tác dụng sát trùng mạnh, có vẻ như trị chứng
(biểu hiện ngoài ra) chứ không trị căn (vi trùng), cho nên khó có thể dứt hẳn
bệnh.

Đang có 0 bình luận
Image

Lời bình luận giới hạn từ 15 đến 500 kí tự.