Nạp Thiếp Ký – Chương 452: Thán độc (*) – Botruyen

Nạp Thiếp Ký - Chương 452: Thán độc (*)

Kiểm nghiệm như thế nào thì hắn nghĩ kỹ rồi. Hắn muốn trong tình hình không
cần giải phẩu, tra rõ nguyên nhân tử vong chân chính. Điều này không những cần
kỹ thuật, mà còn cần có chút vận khí, hi vọng cái chết của Hiền phi thuộc về
nguyên nhân mà không cần giải phẩu cũng có thể chứng minh, nếu không, mọi
chuyện sẽ vô cùng khó khăn.

Dương Thu Trì leo lên thang của một bên quan quách, tháo lớp vỉa bọc ở trên,
lộ ra di thể của hiền phi nương nương. Do trời đang mùa lạnh, lại chôn ở dưới
đất, nên đã qua hơn tháng mà thi thể vẫn giống như lần trước, chỉ hơi thối rửa
nhẹ.

Hắn trước hết lấy những vật thể bồi táng tinh mỹ và có giá trị liên thành bên
cạnh thân thể của Hiền phi nương nương ra, để lộ óa hoa gối gấm ở dưới, rồi
túm giữ hai bên sàn, dùng lực nhấc thi thể lên, từ từ lùi xuống thang gỗ, đặt
thi thể lên sàn đá xanh.

Sau khi tháo mở túi mền, lộ ra di thể của Hiền phi. Lần này Dương Thu Trì
không khách khí nữa, nhoáng cái lột sạch quần áo trên người Hiền phi, bắt đầu
kiểm tra bề mặt da từng chút một.

Thi ban nằm ở phần lưng dưới, căn cứ lời khai của Liên nhi và những người
khác, tuy Hiền phi chết nằm nghiêng một bên, nhưng thi ban chưa kịp xuất hiện
hay vừa xuất hiện thì đã bị phát hiện ra rồi, cho nên sau đó bị đặt nằm ngữa,
nên có hiện tượng này.

Dương Thu Trì tử tế kiểm tra tình huống của thi ban, giật mình cả kinh, vì thi
ban có màu đỏ tươi chứ không phải đỏ bầm như bình thường. Điều này là có hai
loại khả năng: một là có thể vì thi thể đặt trong băng khố quá lạnh, không khí
thấm vào da hình thành hồng huyết cầu mang dưỡng khí, cho nên thi ban màu đỏ
hồng; loại khả năng thứ hai là trong nội thể của Hiền phi hình thành máu nhiễm
khí than, do đó thi ban mới có màu hồng tươi. Nếu như đúng với trường hợp thứ
hai, thì cho thấy Hiền phi chết là do trúng khí độc từ khói than.

Điều này khiến Dương Thu Trì nhớ tới triệu chứng tử vong của Hiền phi mà thái
y có nói đến, đó là một câu: “Quan sát thấy môi miệng đỏ hồng.” Đây là một
trong những triệu chứng trúng độc từ khí than, nhưng mà lúc đó tiết trời đang
vào tháng bảy, nóng nực vô cùng, không có khả năng dùng than lửa gì ở trong
này, cho nên hắn căn bản không nghĩ tới trường hợp trúng độc do khí than. Hiện
giờ kết hợp với thi ban, sự hoài nghi về khả năng này càng lúc càng lớn.

Nhưng mà, không có chứng cứ chứng minh thêm một bước nữa, Dương Thu Trì không
thể kết luận như vậy được. Trước khi làm chuyện này, hắn quyết định tra rõ rốt
cuộc Hiền phi có chết vì trúng tì sương hay là không.

Dương Thu Trì mở rương pháp y vật chứng ra, lấy một cái ống tiêm, hút một ít
muối sinh lý, bơm vào trong bộ vị bao tử của thi thể Hiền phi.

Chờ thêm một chút, hắn đổi ống tiêm thành ống hút từ từ hút nước muối sinh lý
bơm vào lúc nãy, bỏ đầu hút đi, bơm xi lanh vật hút ra được vào cổ con vịt.

Chờ cả nửa ngày, con vịt đó vẫn chạy tới chạy lui kêu cáp cáp lia lịa, chẳng
có vấn đề gì cả. Điều này chứng minh, trong bao tử của Hiền phi căn bản không
có độc! Đương nhiên, nó cũng minh chứng rằng sau khi Hiền phi chết, người ta
đã đổ độc vào!

Hiện giờ đã bài trừ trúng độc do tì sương, sự hoài nghi về khả năng trúng độc
do hơi than oxít các bon (Khí CO) càng lớn hơn.

Muốn kiểm nghiệm trúng độc oxít các bon, phải lấy mẫu máu trong tim và động
mạch chủ. Nếu như kiểm tra ra được thành phần CO trong máu, có thể xác nhận
nghi vấn này.

Người trúng độc oxít các bon sẽ có máu màu đỏ hồng, có tính lưu động cao,
không dễ hư rửa, nhân vì thế sẽ khiến quá trình thối rữa của thi thể người
chết bị chậm đi.

Do thời gian tồn tại của máu chứa CO trong thi thể rất bền, cho dù thi thể đã
thối rữa vẫn có thể kiểm tra ra. Do đó, Dương Thu Trì không sợ sẽ không tìm ra
được.

Hắn lấy một ống chít, cắm sâu vào tim của ngừơi chết, rút ra một ống huyết ở
tim của nạn nhân, sau đó dùng phản ứng với xút NAOH tiến hành kiểm nghiệm. Khi
huyết dịch vừa chạm vào thuốc thử, chỉ thoáng chốc nó đã biến thành màu vàng
nhạt. Điều này chứng minh trong tim của người chết có nồng độ CO rất cao, và
Hiền phi chết là do trúng độc khí than!

Dương Thu Trì còn không an tâm, lại rút một ống huyết dịch lớn trong động mạch
chủ của người chết, sử dụng một phương pháp khác – phương pháp lưu hóa – để
tiến hành kiểm nghiệm. Kết quả, huyết dịch vẫn có màu đỏ hồng, trong khi huyết
dịch bình thường phải biến thành màu xanh nâu. Điều này lần nữa chứng minh,
Hiền phi chết là do trúng độc khí than (CO)!

Tháng bảy trời nóng như vậy ở đâu ra có khí than? Nghĩ không thông, xem ra cần
phải đến dịch trạm kiểm tra hiện trường trở lại lần nữa.

Dương Thu Trì tiếp tục kiểm nghiệm thi thể, không phát hiện có dị thường gì
khác, liền mặc quần áo cho thi thể, thu thập các dụng cụ kiểm nghiệm, rồi gọi
Tống Vân Nhi trở vào.

Tống Vân Nhi hiếu kỳ: “Thế nào? Có phát hiện gì không?”

Dương Thu Trì ngẫm nghĩ, bấy giờ mới nói: “Hiền phi không phải trúng độc tì
sương, mà là trúng độc khí than, còn rốt cuộc là bất ngờ hay là có người dụng
ý mưu sát, cần phải tiến hành điều tra thêm một bước nữa.”

Ở thời cổ đại đã có nhận thức về trúng độc khí CO, trong Tẩy Oan Tập Lục có
ghi: “Trúng phải khí độc từ than đá, khí từ lò sưởi hoặc hầm xí tỏa ra, thì
người bị phủ mà không biết tự chết, thi thể mềm nhũn mà không thương tích gì,
hoàn toàn tương tự ngủ mê mệt mãi không thức dậy nữa.”

Thời đó, người ta đã nhận thức đốt than đá sẽ sản sinh ra khí độc làm người
chết. Nhưng mà họ chưa hề biết khí độc này chính là khí CO mà thôi.

Tống Vân Nhi rất hiếu kỳ, hỏi: “Không đúng a, hiền phi nương nương chết vào
tháng bảy, chính là lúc trời vô cùng nóng bức, ở đâu ra than đá chứ?”

“Do đó chúng ta mới phải quay về dịch trạm nơi xảy ra án mạng để kiểm tra lại
lần nữa.”

Dương Thu Trì nhờ nàng giúp đưa thi thể và các vật bồi táng trở vào quan tài,
sau đó bảo Vương tri huyện mang dân tráng đóng nắp lại, lấp đường vào mộ.

Tiếp theo đó, Dương Thu Trì mang theo Tống Vân Nhi, Hồng Lăng và đội hộ vệ kéo
đến Lâm thành. Hai ngày sau thì đến nơi.

Lâm thành dịch trạm nhân vì có vạn tuế gia và nương nương ở qua, hơn nữa nương
nương ở trong dịch trạm này mà bệnh qua đời, nên tri huyện của Lâm thành cảm
thấy nơi này rất có ý nghĩa kỹ niệm, nên báo cáo lên trên, thân thỉnh một
khoản tiền chuyên môn dựng lên dịch trạm khác, còn dịch trạm cũ thì bảo tồn
nguyên trạng làm kỷ niệm, những vật phẩm đã dùng qua nơi đó đều để vậy, không
cho phép người khác vào ở hay đổi dời. Chủ ý này đương nhiên không ai phản
đối, và vì thế bảo lưu hiện trường thập phần hoàn chỉnh, có giá trị khám tra
hiện trường.

Được sự bồi đồng của tri huyện và sứ quan của dịch trạm, hắn bắt đầu khám
nghiệm lại hiện trường.

Lâm thành là một thành trấn nhỏ, dịch trạm này bày trí rất đơn giản. Dương Thu
Trì mang theo Tống Vân Nhi đến phòng của Hiền phi nương nương quan sát tứ
phía, kiểm tra cẩn thật từng vật phẩm, nhưng chẳng phát hiện được vật gì dị
thường.

Hắn hơi trầm ngâm, nếu như Hiền phi nương nương bị trúng độc oxit cac bon
trong than đá mà chết, và do thời cổ đại không có ống khói hay là ống thoát
hơi, cho nên có thể sản sinh hiện tượng trúng độc khí CO, chủ yếu đến từ khí
than đá và khí than củi.

Than đá không được khai thác đại quy mô ở Minh triều, nhưng cũng đã bắt đầu sử
dụng, chủ yếu là dùng trong luyện kim, trong sinh hoạt gần như không dùng. Sau
khi hỏi kỹ, Dương Thu Trì biết được trong dịch trạm không có sử dụng than đá,
do đó, khả năng lớn nhất có thể dẫn đến trúng độc khí CO là do lửa than.

Hoàng đế mang theo nương nương ngụ ở dịch trạm. Dịch trạm giới bị sâm nghiêm,
người ngoài cơ bản không có cách gì đến gần. Nếu như muốn tiến vào, sẽ phải bị
tiến hành kiểm tra an toàn giống như tiến vào hoàng cung vậy. Nếu như người
đến đó mang theo lò than, khẳng định sẽ bị người tra xét hoài nghi. Cho nên,
lò than củi này dường như không thể nào được mang từ ngoài vào. Và như vậy chỉ
còn một khả năng – than củi dẫn đến hiện tượng trúng động của hiền phi nương
nương chính là ở trong dịch trạm này.

Dương Thu Trì hỏi dịch sứ quan: “Trong dịch trạm của các ngươi vào mùa đông có
dùng lò than sưởi ấm không?”

“Dạ có.” Dịch sứ quan khom người đáp.

“Các ngươi đặt than củi ở đâu?”

Dịch sứ quan chỉ vào hai gian phòng nhỏ ở một góc dịch trạm: “Dạ ở đó.”

Dương Thu Trì bước tới trước gian phòng nhỏ, cửa không đóng, hắn đẩy nhẹ vào.
Gian phòng này là một gian gác xép, bên ngoài đặt mấy bồn lửa để đốt than
chỉnh tề, ngoài ra còn có những lò lửa dùng để nấu nước.

Trong phòng còn sắp vài đống than nhỏ. Dịch sứ quan giải thích: “Những thứ này
mùa đông năm trước chưa dùng hết. Hoàng thượng đi rồi, căn cứ vào chỉ kỳ của
tri huyện đại nhân, dịch trạm này bị phong tỏa, vẫn bảo lưu nguyên dạng.”

Dương Thu Trì bước tới gian ngoài có hỏa lò và bồn lửa, cúi người xuống quan
sát cẩn thận, ngẫm nghĩ một hồi, đứng dậy nhanh chân bước vào gian phòng của
hoàng thượng ở, cho mọi người chờ ở ngoài, mở hết cửa và cửa sổ ra, sau đó một
mìn tiến vào phòng, mọp sát xuống một song cửa sổ cuối cùng, dường như là áp
mặt sát đất, trước hết quan sát ngang, sau đó quan sát kỹ từng điểm.

Cử sổ và cửa lớn đều được mở, căn phòng này trở nên rất sáng, Dương Thu Trì
giương đôi mắt khẩn trương quan sát từng chút một trên mặt đất. Đột niên, mắt
hắn sáng rực lên. Hắn vội ra lệnh cho Nam Cung Hùng mang rương pháp y vật
chứng của mình vào, mở ra lấy một cái nhiếp, cẩn thận dùng nhiếp gấp một chút
vật gì đó từ dưới đất lên, bỏ vào trong ống nghiệm, sau đó bỏ trở lại vào
rương pháp y.

Tống Vân Nhi nhất mực khẩn trương đứng ở cửa nhìn. Trong quá trình Dương Thu
Trì khám tra hiện trượng, nàng không hề lên tiếng. Nàng biết, đây chính là lúc
Dương Thu Trì cần yên tĩnh nhất để suy nghĩ.

Dương Thu Trì đứng dậy, đến tất cả các phòng của cung nữ, thái giám nghỉ lại
đêm đó phục sát đất kiểm tra từng phòng. Cuối cùng, khi kiểm tra đến một gian
ở giữa, mắt hắn sáng lên. Hắn cho mang rương pháp y vật chứng, lấy một cái
nhiếp bò sát đất gấp một miếng nhỏ lên bỏ vào trong ống pha ly.

Tiếp đó, Dương Thu Trì đi quanh quẩn trong phòng một lúc, ánh mắt cuối cùng
dừng lại ở một cái ấm sắt đun nước, bước lại cầm lên nhìn, như nghĩ ra cái gì
đó gật gật đầu rồi để xuống.

Hắn ra khỏi phòng, trở lại phòng chứa than, dùng nhiếp gấp một ít mảnh than
vụn lên, bỏ vào trong một ống nghiệm.

Dương Thu Trì trở lại phòng vừa ra khỏi, bảo bọn Tống Vân Nhi ở ngoài chờ, sau
đó đóng cửa lại, lấy kính hiển vi vi hình ra tiến hành quan sát đối với ba mẫu
vật nhỏ mà hắn thu được. Khi ánh mắt của hắn rời khỏi kính hiển vi, vẻ hưng
phấn và đắc ý tràn đầy.

Dương Thu Trì kiểm tra hoàn tất ra ngoài. Tống Vân Nhi thấy hắn mặt mày hưng
phấn, nhịn không được hỏi: “Ca, thế nào rồi? Có phát hiện gì không?”

Chú thích:

(*) Thán độc: Hơi độc do khói đốt bằng than củi hoặc than đá bay lên. Dùng
thán độc cũng là phương pháp giết người bằng hơi ngạt của người xưa. Khi đốt
cháy than củi hoặc than đá, nếu như không thông gió tốt, hơi ngạt có độc ấy có
thể gây chết người (chính là loại khói không màu không mùi, xuất phát từ khí
CO – Monoxit Cacbon, Oxit các bon, khí than).

Mônôxít cácbon là cực kỳ nguy hiểm, do việc hít thở phải một lượng quá lớn CO
sẽ dẫn tới thương tổn do giảm ôxy trong máu hay tổn thương hệ thần kinh cũng
như có thể gây tử vong. Nồng độ chỉ khoảng 0,1% mônôxít cácbon trong không khí
cũng có thể là nguy hiểm đến tính mạng.

CO là chất khí không màu, không mùi và không gây kích ứng nên rất nguy hiểm vì
người ta không cảm nhận được sự hiện diện của CO trong không khí. Trong gia
đình, khí CO được tạo ra khi các nguồn nhiên liệu như xăng, hơi đốt, dầu hay
gỗ không cháy hết trong các thiết bị dùng chúng làm nhiên liệu như xe máy, ô
tô, lò sưởi và bếp lò v.v.

CO có ái lực với hemoglobin (Hb) trong hồng cầu mạnh gấp 230-270 lần so với
ôxy nên khi được hít vào phổi CO sẽ gắn chặt với Hb thành HbCO do đó máu không
thể chuyên chở ôxy đến tế bào. CO còn gây tổn thương tim do gắn kết với
myoglobin của cơ tim.

Triệu chứng ngộ độc CO thường bắt đầu bằng cảm giác bần thần, nhức đầu, buồn
nôn, khó thở rồi từ từ đi vào hôn mê. Nếu ngộ độc CO xảy ra khi đang ngủ say
hoặc uống rượu say thì người bị ngộ độc sẽ hôn mê từ từ, ngưng thở và tử vong.

Ngộ độc CO có thể xảy ra ở những trường hợp chạy máy nổ phát điện trong nhà
kín, sản phụ nằm lò than trong phòng kín, ngủ trong xe hơi đang nổ máy trong
nhà hoặc gara…

Người xưa, đặc biệt là những người Trung Quốc ở phía bắc thường phải chịu cái
rét khắc nghiệt vào mùa đông, và thường phải đốt lửa bằng than củi (về sau này
một số nơi dùng than đá) để sưởi ấm. Lúc đầu, do lò sưởi chưa có ống thông
khói, nên buộc phải để cửa sổ cho thoáng khí, nhưng làm giảm tác dụng giữ
nhiệt. Nếu vô tình đóng cửa hoặc không đủ chỗ thoáng khí, hơi độc từ khói than
thường làm chết người (a hoàn, tỳ thiếp, thậm chí là gia chủ). Đến đầu đời
Đường, một số nhà giàu người Trung Quốc bắt đầu áp dụng ống thông khói trong
lò sưởi, giảm được thiệt hại về nhân mạng do loại khói độc này gây nên. Và
kiến thức về phòng độc từ khói than có lẽ cũng dần lan truyền ra dân gian, và
phổ biến khắp nơi các triều đại về sau

Bàn rộng ra một chút, thì khi chết vì thán độc, sắc mặt của người chết đỏ
hồng, được cho là phương pháp chết “đẹp” nhất, thích hợp cho nữ nhân! Tuy là
cách tự sát phổ biến thứ sáu (1. Nhảy từ cao xuống, 2. Cắt cổ tay, 3. Uống
thuốc độc, 4. Thắt cổ, 5. Nhảy giếng/sông, 6. Nằm trong phòng sưởi đóng kín
ống thoát, 7: Tự đâm, 8: Nhịn đói chết) nhưng là cách nữ nhân thích dùng nhất
sau dùng dây thắt cổ thời xưa. Điều này là do nữ nhân thích cái đẹp, muốn mình
chết vẫn đẹp. Sự thật thì bị độc chết do khói than nhìn rất ghê rợn, ví dụ như
ói mửa, đại tiểu tiện… Do đó, nữ nhân xưa muốn chết cho sạch sẽ, thường
tuyệt thực ba ngày trở lên

(ND.)

Đang có 0 bình luận
Image

Lời bình luận giới hạn từ 15 đến 500 kí tự.